Lc 3:1-6 – CÂU CHUYỆN Lời Chúa –005
1 Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người anh là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên, 2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. 3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5 Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
* * *
1/ Câu chuyện nêu rõ về thời gian và địa danh vùng miền như một minh chứng sử tính của sự kiện, kể cả tên những nhân vật:
1.1/ Quan quyền phần đời có:
– Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê;
– Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê;
– Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít;
– Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên;
1.2/ Giáo sĩ phần đạo có:
– Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế
1.3/ Thường dân có:
– ông Gio-an (con ông Da-ca-ri-a) trong hoang địa
Thiên Chúa không đến với quan quyền nơi lầu son gác tía, cũng không đến với giáo sĩ cấp cao nơi đền thờ (hay hội đường), mà lại đến với một thường dân nơi hoang địa để cậy nhờ, để sai đi: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa” (Lc 3:2b).
===> Từ những dữ kiện này, người ta có thể tầm nguyên (tương đối chính xác) về thời gian Chúa Giê-su bắt đầu cuộc đời giảng dạy…
2/ Ông Gio-an liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi
2.1/ Ông rao giảng:
– “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2).
– “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3:11).
– “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.” (Mc 1:7-8; x.Ga 1:26-27).
2.2/ Ông kêu gọi:
– “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt 3:8).
– “Người ta chịu phép rửa tỏ lòng hối cải để được ơn tha tội.” (x.Mc 1:4).
– “Người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” (x.Lc 3:3).
– “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” (x.Lc 3:8).
2.3/ Trong Tin Mừng theo tác giả Gio-an, có một câu mà chúng ta phải lưu ý, đó là: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” (Ga 1:25).
– Câu này cho chúng ta biết: Do Thái giáo tin rằng chỉ có Đấng Ki-tô –hoặc ít ra cũng phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ– mới có quyền làm phép rửa ===> và ĐÂY MỚI LÀ PHÉP RỬA THẬT!
– Đối chiếu với lời ông Gio-an (con ông Da-ca-ri-a) rao giảng và kêu gọi (liên quan phép rửa), chúng ta có lý để coi phép rửa của ông Gio-an làm là phép rửa giả, và từ đó định danh Gio-an Tẩy Giả cho ông là rất đúng!
3/ “Người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”
3.1/ “Ơn” là gì?
a) Từ điển Tiếng Việt cho biết: “ơn” xem từ “ân” –––> từ “ân” có 2 nghĩa: 1. Ơn; 2. Nỗi lo lắng, lòng tốt (*1)
b) Từ điển Công giáo cho biết: “ơn”: việc làm tốt lành (*2)
Theo nghĩa này mà luận, thì:
– Những “việc làm tốt lành” mà con người làm cho nhau: Gọi là “làm ơn”;
– Những “việc làm tốt lành” mà Thiên Chúa làm cho con người: Gọi là thi ân, giáng phúc, ban ơn,…
Và nói cách khác: Con người gọi (suy tưởng, cảm nhận,…) (những) “việc làm tốt lành” của Thiên Chúa cho mình đó là (những) Ơn (ban).
3.2/ “Tội” là gì?
3.2.1/ Quan niệm về “tội” nơi mỗi tôn giáo, thậm chí mỗi Nhánh Ki-tô giáo, đều có sự khác nhau…
– Nơi Phật giáo: “Tội lỗi là những điều bất thiện, những việc ác do chính mình nói, chính mình làm, chính mình suy nghĩ, chính mình gây ra, chính mình tạo tác, do thân khẩu ý của chính mình. Tội lỗi cũng do sự sai khiến, xúi giục, chỉ dẫn, bày cách cho người khác làm, thi hành, thực hiện những điều bất thiện, những việc ác. Tội lỗi cũng do sự vui mừng, tán đồng, khen ngợi, khi thấy kẻ khác làm những điều bất thiện, những việc ác.” (*3)
– Nơi Công giáo: “Tội là hành vi khước từ lề luật của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, khi chủ tâm vi phạm luật Chúa. Tội là một hành vi cá nhân xúc phạm đến Thiên Chúa, gây tổn thương cho bản thân, mất sự bình an của tâm hồn và làm đổ vỡ tình liên đới với tha nhân.” (*4)
– Nơi Do Thái giáo: “Tội lỗi là vi phạm điều răn của Thiên Chúa. Do Thái giáo dạy rằng tội lỗi là một hành động, không phải là một trạng thái.” (*5)
– Nơi Ki-tô giáo nói chung: “Tội lỗi là bất cứ điều gì không phù hợp với ý chỉ của Thiên Chúa; đặc biệt là sự cố ý xem thường những chuẩn mực được mặc khải bởi Thiên Chúa, và làm con người xa cách Thiên Chúa.” (*5)
3.2.2/ Với tôi, “tội” là… khi người ta bất tuân lệnh Chúa, không đến với Chúa; khi người ta xúc phạm đến nhau, không đến với nhau (*6).
3.3/ Ai có quyền tha tội?
3.3.1/ Theo Do Thái giáo, “Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (x.Mc 2:7; Lc 5:21)
3.3.2/ Chúa Giê-su có quyền tha tội, vì Người là Thiên Chúa (*7)
– x.Mt 9:2.6; Mc 2:5.10; Lc 5:20.24 – Anh bại liệt có tội gì, chúng ta không biết (vì Tin Mừng không nói), nhưng dù sao thì câu chuyện cũng có ý nghĩa: 1) Ý nghĩa hiện sinh: Người bại liệt được khoẻ mạnh thể xác nên đứng dậy vác (giường) chõng mà về; 2) Ý nghĩa thiêng liêng: Chúa Giê-su cho người bại liệt được khoẻ mạnh = trả tự do, để từ nay anh không cần nhờ ai khiêng đến, mà tự do đến gặp Chúa, đến nghe Lời (tham khảo thêm Lc 10:39.42);
– x.Lc 7:48 – Chị này có tội gì, chúng ta không biết (vì Tin Mừng không nói), nhưng dù sao thì câu chuyện cũng có ý nghĩa thiêng liêng: Tội là “cái gì đó vô hình vô tướng nhưng đè nặng lương tâm” (*8), nay được Chúa Giê-su tháo gỡ;
3.4/ Chúa Giê-su đã tha tội chưa? Thưa rồi!
3.4.1/ Chúa Giê-su đã tha tội không chỉ cho những nhân vật mà Tin Mừng có ghi chép lại như trên (3.2.2/);
3.4.2/ Chúa Giê-su còn tha tội cho nhiều người khi Người bị treo trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:34) – Đây là lời Chúa Giê-su xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ dự phần vào cuộc tử nạn của Người
– Họ vừa xúc phạm đến thiên tính của Người;
– Họ vừa xúc phạm đến nhân tính của Người.
===> Chung quy, những trường hợp trên (3.4.1/ và 3.4.2/) đã được Chúa Giê-su tha tội, và đây là những tội riêng đã phạm; chúng ta không biết sau đó họ có phạm tội mới nào nữa không!?
3.4.3/ Gọi là tội riêng, vậy còn có thứ tội chung sao?
Đúng thế! Còn có một thứ tội chung –không phải là do mọi người đều phạm phải, nhưng bị truyền lại từ những con người đầu tiên đã phạm (x.St 2:16 – 3:24)– và cũng đã được Chúa Giê-su tha qua phép rửa bằng Thánh Thần do chính Người làm (khi trên thập giá, “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí –Ga 19:30b). ĐÂY CHÍNH LÀ PHÉP RỬA THẬT – x.Ga 1:25 để biết rằng chỉ có Đấng Ki-tô mới có quyền làm phép rửa, và Chúa Giê-su chính là Đấng Ki-tô nên phép rửa của Người mới là phép rửa thật!
Vậy, nhờ thứ tội chung này đã được tha mà nhân loại mới có thể sống lại và ra khỏi mồ, mới có cơ may bước vào (trở về) Miền Địa Đàng –có nghĩa là người ta được bước vào (trở về) Miền Địa Đàng hay không còn tuỳ thuộc tội riêng cho tới lúc chết thể lý!
3.5/ Vậy, khi kêu gọi người ta “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”, là ông Gio-an muốn người ta “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để” đón nhận được chính Chúa Giê-su”, vì Chúa Giê-su chính là nguồn cơn tha tội! (*9)
4/ Lc 3:4-5 là lời kêu gọi của ngôn sứ I-sai-a chứ không phải lời của Gio-an (tẩy giả), được tác giả Lu-ca trưng dẫn gán ghép như thể của Gio-an (tẩy giả), nhưng dù sao thì cũng có ích: Nếu hiểu lời kêu gọi ấy theo nghĩa bóng là ‘cái tôi’, sự ích kỷ, lòng hận thù, sự kiêu căng,… để rồi sửa đổi – hoán cải, thì con người dễ đến với Chúa và với nhau!
4.1/ Xem Mt 3:7-12 và Lc 3:7-14, chúng ta sẽ thấy lời ông Gio-an (tẩy giả) kêu gọi và chỉ dẫn rất cụ thể…
4.2/ Xem Mt 3:3 và Ga 1:23, chúng ta thấy ông Gio-an (tẩy giả) có sứ mạng dọn đường cho Chúa Giê-su xuất hiện,
– bằng việc kêu gọi (như đã nói ở 4.1/);
– bằng việc rao giảng “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2);
– bằng việc tuyên bố “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3:11; Mc 1:7-8; Lc 3:16; Ga 1:26-27.31.33).
5/ “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
5.1/ Cứu độ là gì?
a) Tại trang mạng “simonhoadalat.com”, linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ có bài viết (*10) về “Cứu chuộc / Cứu rỗi / Cứu độ” thật dài… Nhưng chúng ta chỉ cần lưu ý 3 điều sau:
a.1) “Được cứu độ là được giải thoát khỏi một nguy hiểm có thể gây đau thương và chết chóc. Tùy theo bản chất của nguy hiểm mà hành vi cứu độ được hiểu như bảo vệ, cứu chữa, cứu chuộc hay giải thoát. Tuỳ theo truyền thống tôn giáo, cứu độ lại được hiểu như cảm nhận cuộc sống sung mãn, được giải thoát hay giác ngộ, đạt tới mức độ viên mãn, tự thực hiện, hạnh phúc vĩnh cửu, kết hợp với Thực Tại Tối Hậu”;
a.2) “Bị nô lệ tội lỗi, nhân loại chẳng khác nào bị cầm tù. Ác thần đã quyến rũ con người phạm tội và đã khống chế con người, nên có thể nói, con người bị nô lệ cho ác thần. Hơn nữa, tình trạng bị cầm tù ấy chính là một món nợ, mà theo đức công bình của Thiên Chúa, con người buộc phải trả. Trước tình cảnh đó, cuộc khổ nạn của Đức Kitô là tiền chuộc hay một cái giá phải trả để giải thoát con người khỏi hai ràng buộc ấy. Vì thế cuộc khổ nạn của Đức Kitô được gọi là sự cứu chuộc nhân loại.”
a.3) “Chúng ta (tức Công giáo) phải phân biệt rõ hai từ cứu chuộc và cứu rỗi khi sử dụng, và không nên dùng từ cứu độ là một từ ngữ Phật giáo.”
b) Theo từ điển Tiếng Việt, thì: “độ” = Sự phù hộ thiêng liêng của Đức Phật giúp chúng sinh từ bến mê qua bến giác. (*11)
c) Tại trang mạng “vuonhoaphatgiao.com”, Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh có bài viết (*12) về “Độ sinh và độ tử”. Trích:
c.1) “Trong số những đệ tử nhờ Phật giáo hóa mà đắc quả La Hán, vị độ trước nhất là Kiều Trần Như và vị độ sau rốt là Tu Bạt Đà La.”;
––> Điều này có nghĩa là: Khi còn tại thế, nhờ việc giáo hoá (dạy bảo) mà Đức Phật (cứu) độ trước nhất là Kiều Trần Như và sau rốt là Tu Bạt Đà La.
c.2) “Trước khi Đức Phật nhập Niết bàn, Ngài nhắc nhở rằng, các con phải hiểu, vị thầy của các con không phải là một nhân vật nào cả, vị thầy đích thực của các con chính là Đạo Pháp.”
––> Đem c.2) đối chiếu với b) và c.1), chúng ta nhận ra: Đức Phật (cứu) độ chúng sinh không phải bằng quyền năng [như b) cho biết], mà bằng lời giảng dạy [như c.1) cho biết], và Ngài khẳng định “vị thầy đích thực của các con chính là Đạo Pháp” = giáo lý của Ngài để lại.
Thế nên, mỗi Phật tử có thể “tự độ” theo giáo lý của Đức Phật cho đến thành Đạo, rồi khi đắc Đạo thì mới có thể “tha độ” (tức là giúp cho người khác, như chính Đức Phật đã làm).
d) VỚI TÔI:
d.1/ Tôi đồng ý với linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ là “Ác thần đã quyến rũ con người phạm tội và con người bị nô lệ cho ác thần”, nhưng tôi không đồng ý với linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ là “tình trạng bị cầm tù ấy chính là một món nợ, mà theo đức công bình của Thiên Chúa, con người buộc phải trả”, vì con người là sản phẩm của Thiên Chúa thì làm sao có khả năng trả, để rồi Ngài lại bắt Con của Ngài là Chúa Giê-su (cũng là Thiên Chúa – tức là “mình tự bắt mình”) “phải trả để giải thoát con người khỏi hai ràng buộc ấy. Thật vô lý!!
d.2/ Tôi đồng ý với Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh về vấn đề “Khi còn tại thế, Đức Phật (cứu) độ chúng sinh bằng giáo hoá; khi đã nhập Niết Bàn, Đức Phật (cứu) độ chúng sinh bằng Đạo Pháp”.
d.3/ Áp dụng vào Chúa Giê-su:
d.3.1/ Chúa Giê-su giáo hoá (giảng dạy): Khi còn tại thế, Chúa Giê-su đã khẳng định “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) (*13) ––> có nghĩa là “không ai vào (về) được Miền Địa Đàng (= Thiên Đàng) nếu không nhờ Người”. Bằng cách nào? Đó là “Mến Chúa Yêu Người” – Đây chính là con đường mà Chúa Giê-su không chỉ giảng cho người ta nghe và dạy người ta sống, mà chính Người cũng đã đi (= đã sống) trọn vẹn con đường ấy bằng những “việc làm tốt lành” cho con người đồng thời. Và đỉnh điểm của những lời giảng dạy “Mến Chúa Yêu Người” ấy vẫn hiển hiện ngay trên thập giá –đó là bằng chứng cho lời Người đã giảng dạy về yêu người– đó là Chúa Giê-su vẫn nhớ về Chúa Cha và con người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:34). Cuối cùng, vấn đề chúng ta cần quan tâm, đó là sau khi chịu chết và sống lại, Chúa Giêsu đã được Về Trời (vào Miền Địa Đàng) (x.Mc 16:19; Lc 24:51) – đây là bằng chứng cho lời Người đã giảng dạy (rằng đi con đường “Mến Chúa Yêu Người” là sẽ được Về Trời = Vào Miền Địa Đàng).
d.3.2/ Chúa Giê-su, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người đã hứa: “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16:7; x.Ga 15:26); rồi trước khi Về Trời (Vào Miền Địa Đàng), Người còn khẳng định “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b) ––> Vậy, chúng ta vừa có Chúa Thánh Thần đã được ban (x.Ga 19:30b), chúng ta lại còn có Chúa Giê-su hiện diện cách nào đó, và 2 Đấng ấy nâng đỡ chúng ta…
d.3.3/ Như thế, Chúa Giê-su đích thực là Đấng Cứu Độ –chứ không phải là Đấng Cứu Chuộc– chúng ta không chỉ bằng Lời (trong Tân ước) (*14) để giáo hoá (như Đức Phật để lại Đạo Pháp), mà còn hơn nữa: Chính Người luôn hiện diện (cách vô hình) bên chúng ta để nâng đỡ…
d.3.4 Gọi Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ càng đúng hơn nữa, vì từ khi những con người đầu tiên phạm tội (bất tuân lệnh Chúa và xúc phạm đến nhau) và bị đuổi khỏi Miền Địa Đàng, cho đến khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người để dạy cho con người biết con đường trở về Miền Địa Đàng, thì quãng thời gian đó gọi là lịch sử cứu độ chứ không ai gọi là lịch sử cứu chuộc!?
5.2/ Ơn Cứu Độ là gì?
Cổ nhân nói: “Cho bạc cho vàng. Không ai chỉ đàng đi buôn”; thế mà Chúa Giê-su đã chỉ cho con người “đàng” (= đường) Về Trời (= Vào Miền Địa Đàng) ––> đây là một “việc làm tốt lành” [xem 3.1/, b)], là “Ơn”, nên Chúa Giê-su = Đấng Cứu Độ = Ơn Cứu Độ!
6/ Tóm tắt toàn bài:
– Khi đến thời đến buổi, “Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa”, tức là sai ông đi dọn lòng người (= dọn đường) tin nhận Chúa Giê-su;
– Ông Gio-an dọn lòng người bằng cách hô hào, “kêu gọi người ta chịu phép rửa (của ông) tỏ lòng sám hối để được ‘ơn tha tội’,” tức là để tin nhận Lời Chúa Giê-su = chính Chúa Giê-su;
– Chỉ khi tin nhận ơn tha tội = Lời Chúa Giê-su = chính Chúa Giê-su, thì người ta mới “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, tức là mới ‘nhìn ra’ Chúa Giê-su mới thực sự là Đấng Cứu Độ!
* * *
Hiểu như thế,
nên tôi đã để đức tin Công giáo (vốn có) khác xa bản gốc,
khi chỉ tin Chúa Giê-su và sống theo lời Người dạy,
đó là coi “MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI” = TÔN GIÁO,
Một tôn giáo không còn nghi lễ nên không cần đền đài vật chất, và lại càng không còn luật lệ vẽ vời ràng buộc.
Khi sống tôn giáo này, tôi luôn cảm nếm được sự ngọt ngào của lời Chúa Giêsu: “Ách tôi thì êm ái, gánh tôi thì nhẹ nhàng!” (Mt 11:30);
Khi sống tôn giáo khác, tôi đoan chắc: Không lúc này thì lúc khác, không khi này thì khi khác, không hình thức này thì hình thức khác, tín đồ có gặp vấn đề mắc kẹt thật khó giải quyết chu toàn!
* * *
Chú thích:
(*1) xem Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, 2005
(*2) xem Từ điển Công giáo, NXB Tôn giáo, 2016
(*3) https://phatgiao.org.vn/toi-loi-la-gi-d48009.html
(*4) https://www.conggiao.org/glvd-toi/
(*5) https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%99i_l%E1%BB%97i
(*6) xem
– “Lời Chúa để sống –012”, phần 1/
– “CÂU CHUYỆN Lời Chúa – 003”, phần 7.4.2/
(*7) xem “LỜI TK được SUY TƯ –001”, phần 3/
(*8) Đây là quan niệm của tôi về “cái gọi là tội”!
(*9) Chính xác là “nguồn cơn”, xin đừng lầm tưởng là “nguồn ơn”!
Nguồn cơn: Đầu đuôi; Duyên cớ – xem Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, 2005.
(*10) http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/MucVu/65CuuChuoc-CuuRoi-CuuDo.htm
(*11) xem Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, 2005
(*12) https://vuonhoaphatgiao.com/phat-hoc/nguyen-cuu/do-sinh-va-do-tu/
(*13) xem bài “Lời Chúa để sống –007”
(*14) xem Lời ngỏ –02
† † †