Ga 18:33-37 – CÂU CHUYỆN Lời Chúa –003
33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” 34 Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” 35 Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
* * *
1/ “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”
Thật ra trong vụ án Chúa Giê-su, chỉ duy Tin Mừng theo tác giả Lu-ca là có chi tiết dân chúng tố cáo Chúa Giê-su là Vua: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa.” (Lc 23:2).
Còn Phi-la-tô, ông thừa biết Hê-rô-đê là vua Do Thái đương thời, nên câu Phi-la-tô hỏi “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” vừa có tính xác định với ý muốn Chúa Giê-su thừa nhận, vừa cho thấy sự hiểu biết của ông chỉ có nghĩa đen là dân tộc Do Thái đang bị trị mà thôi.
2/ Chúa Giê-su hạch lại Phi-la-tô bằng câu hỏi “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” có nhiều ngụ ý:
2.1/ Nếu Phi-la-tô trả lời là ‘tôi tự ý nói’, thì chính câu trả lời ấy sẽ tố cáo Phi-la-tô muốn phế bỏ vua Hê-rô-đê;
2.2/ Nếu Phi-la-tô trả lời là ‘do những người khác nói với tôi’, thì câu trả lời này sẽ vạch trần sự đồng loã của Phi-la-tô với dân chúng;
2.3/ Và dù Phi-la-tô trả lời theo cách nào, thì vụ án cũng sẽ bị đẩy theo chiếu hướng chính trị;
3/ Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”
3.1/ Ông chối bỏ tư cách là người Do Thái, đồng nghĩa là trong đầu ông không có cả 2 cách trả lời giả định (nói) trên.
3.2/ Ông xác định chính dân của Chúa Giê-su đã nộp Ngài.
4/ Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”
4.1/ Một cách gián tiếp, Chúa Giê-su không chỉ thừa nhận, mà còn là khẳng định Người là Vua!
4.2/ Nhưng Chúa Giê-su cũng xác định rõ: Nước của Người không thuộc về thế gian (chốn) này!
5/ Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”
5.1/ Câu hỏi của Phi-la-tô lúc này vừa có âm giọng ngạc nhiên;
5.2/ Vừa không còn mang tính xác định tên dân tộc Do Thái nữa;
6/ Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.”
Dù Phi-la-tô đặt câu hỏi “Vậy ông là vua sao?”, nhưng câu Chúa Giê-su trả lời “Chính ngài nói rằng tôi là vua” lại là câu xác định, nên câu trả lời này của Chúa Giê-su,
– vừa có ý khen Phi-la-tô đã ‘nắm bắt nhanh’ hàm ý của lời của Chúa Giê-su “Nước tôi không thuộc về thế gian này…” (Ga 18:36);
– vừa có ý tuyên bố với thế giới là “Chính tổng trấn Phi-la-tô đã xác nhận TÔI là Vua đấy nhé!”
7/ “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật.”
– “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30);
– “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.” (Ga 14:10);
Vậy thì, chúng ta cùng nhau ôn lại những lời dạy và việc làm của Chúa Giê-su –cũng chính là những lời dạy và việc làm của Chúa Cha– để biết sự thật mà Người đã làm chứng:
7.1/ Sự thật về một Thiên Chúa là Cha yêu thương.
– Khi thừa nhận công việc sáng tạo (x.Mt 19:4; Mc 10:6), Chúa Giê-su đã làm chứng về một Thiên Chúa là “Cha Yêu Thương”, nên Ngài đã tự nhủ “CHÚNG TA HÃY LÀM RA CON NGƯỜI THEO HÌNH ẢNH CHÚNG TA, GIỐNG NHƯ CHÚNG TA” (St 1:26), và Ngài đã sáng tạo trước tiên là những người đàn ông (x.St 2:7), sau đó mới sáng tạo người đàn bà (x.St 2:22) ===> Như thế, con người từ chỗ hư vô, được Thiên Chúa cho được hiện hữu, mang bản tính yêu thương, được ở trong vườn địa đàng (x.St 2:8) – tiếc rằng con người đã không biết yêu thương Chúa là Đấng đã dựng nên mình (có bản tính yêu thương) qua việc bất tuân lệnh Chúa (x.St 3:6), và con người cũng không biết yêu thương nhau qua việc đổ lỗi (ông đổ cho bà, bà đổ cho con rắn – x.St 3:12-13), nên đã đánh mất cuộc sống trong vườn địa đàng khi bị Chúa đuổi ra (x.St 3:23).
– Khi khuyên dạy các môn đệ “tin tưởng vào Chúa quan phòng” (x.Mt 6:25-33; Lc 12:22-31), Chúa Giê-su đã làm chứng về một Thiên Chúa là “Cha Yêu Thương”, nên Ngài luôn săn sóc, giữ gìn (Ga 5:17) con cái đang vất vả lầm than;
– Chúa Giê-su và Chúa Cha là một (x.Ga 10:30), nên khi Chúa Giê-su tuyên bố “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (x.Lc 19:10), “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về” (x.Ga 10:16), tức là Chúa Giê-su đã làm chứng về một Thiên Chúa là “Cha Yêu Thương”, nên Ngài luôn tìm kiếm con cái đang lưu lạc;
– Khi tuyên bố “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16), là Chúa Giê-su đã làm chứng về một Thiên Chúa là “Cha Yêu Thương”, nên Ngài không những săn sóc, giữ gìn, tìm kiếm, mà Ngài còn cụ thể hoá bằng việc sai Con Một xuống chỉ dạy cho con người biết phải làm gì để được Trở Về Miền Địa Đàng đã mất;
– … … …
7.2/ Sự thật về một Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
– Chúa Giê-su cho biết Người là Chúa (x.Mt 9:6; Mc 2:10; Lc 5:24; x.Mt 26:63-64; Mc 14:61-62; Lc 22:70; x.Ga 3:13; 10:25-38; 13:13-14; 16:28.32b; );
– … … …
– Nhưng Người có Chúa Cha là Cha của Người (x.Mt 11:25-27; Lc 10:21-22; x.Mt 26:39; Mc 14:36; Lc 22:42; x.Lc 23:46; x.Ga 2:16; 5:17-18; 10:25-36; 14:8-13; 17:1-26; 20:17b)
– … … …
– Và Thánh Thần cũng là Chúa (x.Mt 28:19) vì xuất phát từ Chúa Cha (x.Ga 15:26b; 16:13-15)
– … … …
7.3/ Sự thật về con người.
– Khi trích dẫn Thánh Kinh Sáng thế (x.Mt 19:4-5; Mc 10:6-8), đồng nghĩa là Chúa Giê-su không chỉ thừa nhận Thiên Chúa đích thân tạo dựng con người (x.St 2:7.22), mà còn thừa nhận việc con người phải xa lìa Thiên Chúa khi bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng (x.St 3:23);
* Nhưng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã trực tiếp loan báo có Nước Thiên Chúa, và con người khả dĩ được trở về với Thiên Chúa (x.Mt 5:3-4.10-12.20; Lc 6:20.23; x.Mt 6:33; Lc 12:31; x.Mt 7:21; Lc 13:28-29; x.Ga 14:3; … … …).
– Khi trích dẫn Thánh Kinh Sáng thế (x.Mt 19:4-5; Mc 10:6-8), đồng nghĩa là Chúa Giê-su không chỉ thừa nhận Thiên Chúa đích thân tạo dựng con người (x.St 2:7.22), mà còn thừa nhận việc con người phải chết (x.St 3:19);
* Nhưng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã trực tiếp loan báo chết không phải là hết, mà còn có sự sống lại (x.Mt 16:21; Mc 8:31; Lc 9:22; x.Mt 17:22; Mc 9:31; x.Mt 20:19; Mc 10:34; Lc 18:33; x.Ga 5:28-29; 11:25-26; … … …).
– Khi trích dẫn Thánh Kinh Sáng thế (x.Mt 19:4-5; Mc 10:6-8), đồng nghĩa là Chúa Giê-su không chỉ thừa nhận Thiên Chúa đích thân tạo dựng con người (x.St 2:7.22), mà còn thừa nhận việc con người có giới tính sinh học và xu hướng tính dục (x.St 2:25);
* Nhưng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã trực tiếp loan báo “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (x.Lc 20:34-36; Mt 22:30; Mc 12:25).
– … … …
7.4/ Sự thật về tự do và về tội
7.4.1/ Sự thật về TỰ DO
Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tự do (hiểu theo mọi nghĩa), nên theo sách Sáng thế, Thiên Chúa đã tự nhủ “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống chúng ta” (St 1:26) – đồng nghĩa là con người cũng có tự do!
Thật vậy, sách Sáng thế cho biết tiếp: Trước tiên, Thiên Chúa đã tạo dựng con người là những đàn ông (x.St 2:7) (*1), và Ngài đã dẫn muôn loài đến cho con người là những đàn ông tự do đặt tên: “Hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19).
===> Tự do là Thiên Chúa TỰ NGÀI LÀM ĐIỀU NGÀI MUỐN.
Thứ đến, “Đức Chúa là Thiên Chúa TRUYỀN LỆNH cho con người rằng: ‘Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết’.” (St 2:16-17), và Ngài để đàn ông và đàn bà tự do quyết định ‘có’ hay ‘không’ việc tuân giữ lệnh của Ngài, thế nên mới có việc họ tự ăn trái của cây bị Thiên Chúa cấm ăn.
===> Tự do là con người TỰ MÌNH LÀM ĐIỀU MÌNH MUỐN.
7.4.2/ Sự thật về TỘI
Cần nhớ một Chân lý: KHÔNG CÓ LUẬT THÌ KHÔNG CÓ TỘI!
7.4.2.1/ Vậy, ngay thuở tạo dựng, có luật nào không?
Thưa: Khi xong mọi công việc sáng tạo, “THIÊN CHÚA THẤY MỌI SỰ NGƯỜI ĐÃ LÀM RA QUẢ LÀ RẤT TỐT ĐẸP” (St 1:31) – điều này có nghĩa là: Mọi luật lệ Người đặt ra cho vạn vật –dù minh nhiên hay ẩn tàng– đều hợp lý và có ích!
Riêng với con người, Thiên Chúa đã TRUYỀN LỆNH CẤM con người ăn trái của cây cho biết điều thiện điều ác (x.St 2:16-17).
Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, đáng lý ra con người phải dùng “bản chất yêu thương” để yêu thương Chúa ( = tuân lệnh Chúa) và dùng “bản chất yêu thương” để yêu thương nhau ( = không đổ lỗi cho nhau). Nhưng tiếc rằng, con người đã dùng quyền “tự do yêu thương” nhằm thoả mãn bản thân, qua việc không yêu Chúa (để rồi trái lệnh Chúa mà ăn trái bị cấm) và qua việc không yêu người (để rồi xúc phạm nhau bằng việc đổ lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho rắn) ===> ĐÂY LÀ TỘI!
Cho nên: LÀ TỘI khi CON NGƯỜI XÚC PHẠM ĐẾN CON NGƯỜI –dù tinh thần, hay thể xác, hay vật chất.
Chúa Giê-su dạy “Mến Chúa Yêu Người” là đúng, vì khi ‘yêu người = yêu thương nhau’ = người ta không xúc phạm nhau, thậm chí còn làm điều tốt cho nhau, thì đâu có gì là tội nữa!
Nếu như ngay lúc Thiên Chúa hài tội, phải chi con người biết tự mình (dùng “tự do yêu thương” để) hối lỗi, nhận tội, thì có lẽ sự thể đã khác!
Điều không hay lại là sự thật: Con người đã TỰ MÌNH LÀM ĐIỀU MÌNH MUỐN bằng “cái tôi” ích kỷ qua việc không yêu Chúa (để rồi trái lệnh Chúa mà ăn trái bị cấm) và qua việc không yêu người (để rồi xúc phạm nhau bằng việc đổ lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho rắn), nên bị Thiên Chúa chế tài: Đuổi ra khỏi vườn địa đàng!
Do đó, TỰ DO LÀ TỰ MÌNH LÀM ĐIỀU MÌNH MUỐN MIỄN KHÔNG ẢNH HƯỞNG NGƯỜI KHÁC.
7.4.2.2/ Nhưng lưu ý, là Chúa Giê-su còn cho biết: Ngoài TỘI XÚC PHẠM ĐẾN CON NGƯỜI, còn có một thứ tội nữa, đó là TỘI NÓI PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN (x.Mt 31-32; x.Mc 3:28-29; x.Lc 12:10).
Thánh Thần là Đấng “sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26) và “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) – Vậy, sẽ là TỘI NÓI PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN khi người ta tiếm quyền của Ngài để giải thích ra thế này thế nọ và buộc (muốn) người khác phải theo, trong khi Thánh Thần đang “dạy” và đang “dẫn” người ta theo cách của Ngài!
7.4.2.3/ Thế nên, khi con người –trong lắng nghe Thánh Thần– tự do sống “Mến Chúa Yêu Người” thì con người mới phải chịu trách nhiệm lời mình nói (x.Mt 12:36-37) và việc mình làm (x.Mt 25:35-45) chứ!
Có tôn giáo nào đoan chắc rằng tôn giáo mình là đúng nhất? Và cách thức sống đạo của tôn giáo mình sẽ bảo đảm cho người ta được lên thiên đàng?
Nếu có tôn giáo như thế, chắc các vị tu hành lãnh đạo (đã sống theo đường lối tôn giáo đó) lên thiên đàng hết rồi quá!? – Mỉa!
7.5/ Sự thật về CON ĐƯỜNG VỀ “MIỀN ĐỊA ĐÀNG”
– Con người được tạo dựng có bản chất yêu thương, được sống trong vườn địa đàng; nhưng vì sống không yêu thương … nên con người đã đánh mất cuộc sống địa đàng ấy;
– Chúa Giê-su, Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người, để dạy cho con người biết con đường duy nhất khả dĩ giúp trở về Miền Địa Đàng ( = Nước Trời, Thiên Đàng,…), đó là sống “Mến Chúa Yêu Người”;
– CHÚA GIÊ-SU ĐÃ SỐNG LỜI DẠY “MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI” cho đến chết (Lc 23:34), vì thế Thiên Chúa đã cho Người sống lại và Về Trời (nơi Người đã xuất phát – x.Ga 3:13; Ga 16:28; …).
===> Đời sống – sự sống lại – Về Trời: Tất cả, vừa là bằng chứng, vừa để minh chứng cho lời Chúa Giê-su dạy!
8/ “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
– Chúa Giê-su đã khẳng định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13).
– Con người nói chung, mỗi chúng ta nói riêng, đều đã được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật ngay khi Chúa Giê-su tử nạn (Ga 19:30).
– Xin Thần Khí Sự Thật trong mỗi chúng ta, làm cho chúng ta “nhớ lại mọi điều Thầy ( = nghe tiếng tôi) đã nói” (x.Ga 14:26)!
*** “Quân vô hí ngôn” (Vua không nói đùa) –––> Chúa Giê-su là Vua Thiên Quốc, nên Người không đùa khi chỉ dạy, vì thế rất rất mong Anh Chị Em hãy chịu khó cộng tác với Thần Khí Sự Thật mà suy nghĩ…
9/ Phần tôi, hiểu lời Chúa Giê-su như thế,
nên tôi đã để đức tin Công giáo (vốn có) khác xa bản gốc,
khi coi “Mến Chúa Yêu Người” là TÔN GIÁO ĐƠN GIẢN CỦA TÔI,
MỘT TÔN GIÁO không còn nghi lễ, không còn đền đài vật chất, không còn luật lệ ràng buộc, chỉ còn những thực hành sống Lời Chúa, nên tôi luôn cảm nếm được sự ngọt ngào của lời Chúa Giêsu: “Ách tôi thì êm ái, gánh tôi thì nhẹ nhàng!” (Mt 11:30);
Khi sống tôn giáo khác, tôi đoan chắc: Không lúc này thì lúc khác, không nơi này thì nơi khác, không hình thức này thì hình thức khác, tín đồ có gặp vấn đề mắc kẹt thật khó giải quyết chu toàn!
Vậy, mời Anh Chị Em, cùng tin và cùng sống LỜI CHÚA GIÊ-SU như tôi, để đời sống trần gian được bình an hạnh phúc!
* * *
Chú thích:
(*1) xem bài “LỜI TK được SUY TƯ –004”, phần 2/
† † †